Thứ Tư, 13 tháng 4, 2016

Hướng dẫn khử mùi tanh trong giếng khoan

Hướng dẫn khử mùi tanh trong giếng khoan

Giải pháp đã đoạt giải nhất cuộc thi quốc gia về "Cải thiện việc sử dụng và bảo vệ nguồn nước" lần thứ ba, quan trọng hơn, nó rất đơn giản và hiệu quả trong việc áp dụng vào thực tế.



Nỗi ám ảnh "tanh"

"Mỗi khi về quê, thấy nước giếng khoan nhà mình có mùi tanh, em chỉ mong muốn có một bể lọc hoàn hảo để lọc hết mùi" - Nguyễn Văn Thịnh, Trưởng nhóm hồ hởi bắt đầu cuộc trò chuyện với chúng tôi.
Mày mò tìm kiếm thông tin qua sách, báo, trong các báo cáo khoa học, bộ ba Nguyễn Văn Thịnh, Nguyễn Đăng Phúc Long và Nguyễn Tuyết Chinh được biết hơn 40% số dân ở Hà Nội vẫn chưa được sử dụng nước máy đạt chất lượng, tập trung chủ yếu ở các vùng nông thôn ngoại thành như: Thanh Trì, Sóc Sơn, Từ Liêm v.v...

Trong khi ấy, hàm lượng các chất như mangan, asen, amoni... đặc biệt là hàm lượng sắt đều vượt quá giới hạn cho phép ở cả hai tầng nước, thay đổi theo mùa. Bức xúc trước vấn đề ấy, cả nhóm quyết định lựa chọn đề tài nghiên cứu khoa học "Cải thiện chất lượng nước giếng khoan bằng phương pháp cải tiến bể lọc truyền thống kết hợp với việc sử dụng cây thủy trúc và chất hóa học A101", ngõ hầu góp một chút sức mọn vào việc nâng cao chất lượng nước sinh hoạt của người dân thủ đô.

Ý tưởng sử dụng cây thủy trúc để lọc nước giếng khoan đến với Tuyết Chinh, thành viên nữ duy nhất trong nhóm - thật tình cờ. Chả là, những ngày chủ nhật về nhà bà ngoại ở huyện Thạch Thất, Hà Tây, Chinh đều thấy bà ngoại trồng cây thủy trúc trong các bể lọc nước giếng khoan. Lấy làm lạ, Chinh hỏi bà thì được biết cây thủy trúc lọc nước giếng khoan rất tốt.

Khi Chinh mang ý tưởng này ra đề xuất, ngay trong trưa nắng, cả nhóm vội vã bắt xe khách về Hà Tây hỏi ý kiến bà. "Loại cây hoa hình chùy này có khả năng lọc sắt làm giảm mùi hôi tanh nước giếng khoan. Các cháu cứ mang về làm thử, bà tin nó sẽ có tác dụng". Nghe bà, Chinh và các bạn xin một khóm cây thủy trúc mang về Hà Nội trồng để chuẩn bị cho dự án của cả nhóm.


Cây thủy trúc được trồng trong bể lọc, không chỉ có công dụng khử mùi tanh của nước giếng khoan, mà còn có tác dụng làm cảnh.

Sáng tạo từ phòng trọ

Nhưng nếu chỉ lọc nước bằng cây thủy trúc thì chỉ là một phương pháp cổ điển, thiếu tính sáng tạo và khả thi trong áp dụng. Cả nhóm lại ngồi tranh luận, nhiều lúc căng thẳng để tìm giải pháp. Bà chủ nhà, nơi Thịnh ở trọ đã nhiều phen tưởng tụi trẻ đánh lộn đến nơi, phải chạy sang can thiệp. Khi biết đám trẻ đang... tranh luận khoa học thì bà chỉ còn biết cười xòa.

Rốt cuộc, phương án cuối cùng là về hỏi bố Long, vốn là một kỹ sư hóa chất. Long tâm sự: "Bố chỉ gợi ý cho em phương pháp xử lý nước bằng cách thử dùng polime kết tách. Bàn thảo mãi, cuối cùng cả nhóm quyết định dùng Aronfolic A101 của Nhật Bản để lọc, làm sạch nước giếng khoan quy mô nhỏ. Theo em biết, thì chất này đã được sử dụng lọc sạch nước từ nhiều quốc gia trên thế giới".

Khi đã có cơ sở cho đề tài, cả nhóm góp tiền mua nguyên vật liệu hết 120.000 đồng với hai thùng lọc nước, ống dẫn và chất A101. Thùng mua về, Long nhờ anh trai khoan lỗ cho nước chảy. Rồi lại lòng vòng trên chiếc xe đạp gần hai chục cây số mỗi ngày, cả nhóm mới xin được 5 cân sỏi, 5 cân đá và bỏ tiền ra mua thêm 1.500 đồng than hoa (than củi) về làm thực nghiệm. Mặc dù việc học của năm cuối cấp bận rộn, nhưng vào ba buổi chiều thứ ba, tư và bảy, cả ba lại cặm cụi dành thời gian thực nghiệm cho công trình dự thi.

Công việc đang dang dở lại vướng vào mấy ngày nghỉ tết. Thịnh về quê. Để thùng lọc ở phòng trọ không yên tâm, cả nhóm lại chất tất cả lên xe đạp chở về nhà Long. Chẳng may đi đường một chiếc thùng bị rơi vỡ, cả ba đành phải nhịn ăn sáng lấy tiền mua thùng mới.

Những cố gắng của nhóm ba người đã cho những kết quả khả quan. Cả ba đã quyết định xây dựng mô hình: "Bể lọc cải tiến kết hợp cây thủy trúc với chất A101 để lọc nước giếng khoan". Quy trình lọc của bể là: nước giếng khoan bơm vào bộ phận lọc bằng cây thủy trúc, sau đó cho chảy sang bể lọc thông thường được rắc tán A101, rồi cho chảy vào bể chứa nước sau khi lọc.

Trái ngọt


Niềm vui của các quán quân (từ trái qua phải: Nguyễn Văn Thịnh, Nguyễn Đăng Phúc Long và Nguyễn Tuyết Chinh). Khi công trình của nhóm ba người được thông báo là một trong số 12 đề án được tuyển chọn vào vòng phỏng vấn cuối cùng, từ hơn 800 đề án gửi dự thi trên toàn quốc, "Cả 3 đều rất hồi hộp và bất ngờ chen vào đó là một chút lo lắng..." - Chinh tâm sự.
Rồi họ lại dồn tâm sức vào việc chỉnh sửa bản thuyết trình. Nhờ có tài ăn nói, Thịnh đã được chọn làm người trả lời những câu hỏi phỏng vấn của Hội đồng giám khảo.

Trong ngày phỏng vấn chung khảo, cả ba đã ghi điểm trước Hội đồng giám khảo bằng sự xuất hiện hết sức chuyên nghiệp. Là nhóm duy nhất không có thầy hướng dẫn đi cùng. Thịnh tự cài đặt máy tính xách tay để trình bày hình ảnh qua máy chiếu. Thấy vẫn chưa thuyết phục, Chinh cài thêm dữ liệu vào máy tính của Ban tổ chức để giải thích thêm. Long thì lo việc phụ trách phần thí nghiệm với đồ nghề là gói A101 trắng.

Khả năng trình bày tự tin của Thịnh đã chinh phục Hội đồng giám khảo. Từ những ý kiến phản hồi của Hội đồng giám khảo, cả nhóm dự định sẽ đưa ra mô hình lọc nước với một bể cải tiến gồm cây thủy trúc và phèn chua hoặc keo tụ, thay thế chất A101 để giảm giá thành. Họ mong muốn có nhà sản xuất bể lọc cải tiến bằng bồn inox không rỉ để lọc nước trên quy mô hộ gia đình cho nhân dân nhiều vùng vẫn còn đang phải dùng nước giếng khoan...

Và thành công đã đến, nhóm 3 người đã đoạt giải nhất cuộc thi quốc gia về "Cải thiện việc sử dụng và bảo vệ nguồn nước" lần thứ ba, giành quyền tham dự cuộc thi quốc tế tại Stockhom (Thụy Điển).

Nhưng điều quan trọng hơn, kết quả nghiên cứu của họ đã được áp dụng rất rộng rãi trong thực tế. Bể lọc được nghiên cứu sử dụng bằng các phương pháp sinh học, hóa học và vật lý, hệ thống bể lọc có hai bình.

Bể lọc thứ nhất dùng phương pháp sinh học là trồng cây thủy trúc, đây là sáng kiến rất độc đáo trong việc dùng thực vật để lọc nước. Bể lọc thứ hai là bể lọc bằng cát, sỏi, than hoa và chất hóa học flocculant. Ưu điểm nổi bật của bể lọc này là giá thành rẻ, nguyên liệu sẵn có, dễ lắp đặt v.v..., rất phù hợp với điều kiện sống của nhân dân ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Nước sau khi lọc đảm bảo chất lượng.

Mẫu nước sau khi lọc qua hệ thống bể lọc, được các em mang đi xét nghiệm tại Viện Hóa học đã cho thấy hàm lượng sắt trong nước trước khi lọc là 8,9mg/l, sau lọc chỉ còn 0,5mg/l, đạt tiêu chuẩn Việt Nam và được phép sử dụng rộng rãi trong các hộ gia đình.

Nguồn nước ngầm đam tụt giảm khá nghiêm trọng

* Kết quả quan trắc của Trung tâm Quan trắc và dự báo tài nguyên nước (Bộ TN-MT): trong mười năm, nước ngầm tại một số nơi ở Hà Nội giảm đến 6m, tại TP.HCM có nơi giảm đến 10m.
* Hiện TP.HCM đang có trên 300.000 giếng khoan, có nơi phải khoan đến 160m trở lên mới có nước ngọt.
* Nếu không có những biện pháp bảo vệ nghiêm ngặt, 30 năm nữa ở TP.HCM sẽ không còn nước ngầm!
Những con số trên đang khiến nhiều người phải giật mình.

Không chỉ một cây, có hộ còn khoan cùng lúc hai cây nước ngầm đường ống 60mm chỉ cách nhau 1m để bơm nước nhanh gấp đôi. Mỗi giờ bơm 80m3, như vậy một cây nước rót đầm tôm trên 1.900m3/ngày đêm, điều này đủ thấy được lượng nước ngầm bị khai thác nhiều như thế nào.Tại ĐBSCL, dù hàng ngàn cây nước ngầm (giếng khoan) ở các đồng tôm, rẫy màu... nhưng cơ quan chức năng vẫn chưa có con số thống kê cụ thể, chỉ ước chừng chung chung. Ông Phạm Văn Chu - một chủ hộ nuôi tôm ở xã Vĩnh Trạch Đông (thị xã Bạc Liêu) - nói: “Nước ngầm đang cạn kiệt nên người nuôi tôm bây giờ đều sử dụng đường ống 60mm gắn môtơ điện công suất mỗi giờ bơm khoảng 80m3, mỗi đợt bơm liên tục 5-7 ngày”.
Một nhà khoan 2-3 cây nước
Về vùng trồng rau, hành tím chuyên canh ở huyện Vĩnh Châu (Sóc Trăng) ở đâu cũng nghe vang rền tiếng máy bơm nước từ các cây nước ngầm. Ông Trần Thanh Hiện ở xã Lạc Hòa cho biết nhà ông có một cây nước gắn máy bơm dùng trong gia đình, ngoài rẫy hành còn có một cây nước khoan sâu 106m với đường ống 49mm để bơm nước tưới nhưng mới sử dụng được hai năm đã “hụt hơi” nên phải khoan thêm một cây nước khác.
Cây nước này sâu 108m với đường ống 60mm, đặt máy bơm tốc độ 40m3/giờ mới bơm đủ nước tưới hành trong những tháng mùa khô. Đi dọc đường Nam Sông Hậu qua huyện Vĩnh Châu có thể đếm được hơn 2.000 cây nước ngầm bởi hầu như nhà nào cũng có 1-2 cây nước.
Phía xã Vĩnh Trạch, thị xã Bạc Liêu (Bạc Liêu) cây nước “mọc” lên khắp các rẫy dưa hấu, rau cải, ngò rí... Ông Trần Thanh Phúc ở ấp Thào Lạng than vãn: “Nắng nóng thiếu nước nghiêm trọng, mấy cây nước ở vùng này thường xuyên bơm không lên nước. Muốn có nước phải bơm mồi 5-10 phút, có lúc máy chạy xì khói đen nhưng nước lên chừng nửa giờ đã ngưng chảy”.
Không chỉ lấy nước ngọt phục vụ sinh hoạt hay tưới rau mà hàng ngàn hộ nuôi tôm ở ĐBSCL còn khoan cây nước phục vụ nhu cầu nuôi tôm công nghiệp. Ông Phạm Văn Chu khẳng định: “Vùng này nhà nào nuôi tôm đều khoan cây nước để lấy nước pha với nước biển nuôi tôm sú.
Trước đây tôi có cây nước đường ống 49mm, sâu 106m (thời điểm năm 2005 chỉ cần khoan 95-100m là có nước), bơm liên tục bảy ngày bảy đêm mới cho máy nghỉ. Có lần bơm đến ngày thứ sáu thì hết nước, cho máy nghỉ hai ngày rồi bơm tiếp nhưng nước chỉ chảy được hai ngày rồi hết nước luôn”. Ông Út Sâm ở gần đó cũng cho biết vừa chi 2,7 triệu đồng khoan tiếp một cây nước khác vì cây nước cũ bơm không lên nước.

Có nước máy vẫn khoan giếng 
Nếu như tại ĐBSCL một nhà xài 2-3 giếng khoan thì tại TP.HCM dù được cung cấp nước máy khá rộng nhưng nhiều nhà vẫn khoan giếng để xài nước ngầm. Một phó tổng giám đốc Tổng công ty Cấp nước Sài Gòn (Sawaco) cho biết có khoảng 90.000 giếng khoan ở khu vực nội thành. Chỉ riêng tại Xí nghiệp cấp nước Trung An (thuộc Sawaco) trong thời gian qua đã kiểm tra phát hiện hơn 150 trường hợp sử dụng hai nguồn nước.
Ông Nguyễn Hữu Hiệp, phó giám đốc Xí nghiệp cấp nước Trung An, nói khi phát hiện trường hợp sử dụng hai nguồn nước đơn vị này đều tiến hành lập biên bản, yêu cầu ngưng sử dụng nước giếng theo quy định nhưng vẫn có tình trạng sau đó người dân tự ý đấu nối lại và “ngụy trang” kỹ hơn.
Tại khu vực ngoại ô TP.HCM, việc khoan giếng sử dụng nước ngầm rất thoải mái. Mặc dù theo quy định, trước khi khoan giếng phải xin phép chính quyền địa phương nhưng thực tế mọi người dân đều bỏ qua thủ tục này.
Theo thống kê của cơ quan chức năng, có khoảng 200.000 giếng khoan của các hộ gia đình khai thác khoảng 200.000m3/ngày, thực tế còn lớn hơn con số này rất nhiều. Ngoài khai thác nước giếng để sinh hoạt, người dân tại những khu vực trồng rau của Q.12, Thủ Đức và các huyện Hóc Môn, Bình Chánh, Củ Chi... cũng thường dùng nước giếng khoan để tưới tiêu.
Thống kê sơ bộ của Sở Tài nguyên - môi trường (TNMT) TP.HCM cho thấy hiện có khoảng 100.000 giếng khoan công nghiệp khai thác khoảng 400.000m3/ngày. Theo ông Huỳnh Lê Khoa - phó phòng quản lý tài nguyên nước và khoáng sản thuộc Sở TNMT TP.HCM, do hạ tầng chưa hoàn chỉnh nên tình trạng khai thác nước ngầm phục vụ sản xuất hầu như xuất hiện tại hầu hết các khu công nghiệp. “Những trường hợp khoan giếng đều phải xin phép Sở TNMT nhưng thực tế có nhiều đơn vị khoan chui” - ông Khoa cho biết.
Giếng khoan ngày càng sâu
Ông Nguyễn Thành Tâm, chủ cơ sở khoan giếng trên đường Phạm Văn Chiêu, Q.Gò Vấp, có gần 30 năm trong nghề khoan giếng, cho biết vẫn thường xuyên nhận hợp đồng cho nhiều hộ gia đình, các công ty trên địa bàn Q.12, huyện Bình Chánh, Củ Chi, Hóc Môn. Một số nơi đã có nước máy như Gò Vấp, Tân Phú vẫn có nhiều người khoan giếng để xài.
Theo ông Tâm, càng về phía miền Tây mực nước ngầm càng hạ thấp. Nếu như tại khu vực trung tâm TP chỉ cần khoan 28m là có nước “ngon” thì tại các khu vực quận 6, 8, huyện Bình Chánh khoan từ 160m trở lên mới xài được nước. Riêng tại khu vực quận Gò Vấp, khoảng 10 năm trước chỉ khoan xuống 16m là có nước ngầm nhưng giờ phải khoan đến 24m, thậm chí sâu hơn mới xài được. Thời gian qua, chỉ riêng cơ sở của ông Tâm đã khoan cho hàng trăm trường hợp tại nhiều khu vực ở TP.HCM.

Hướng dẫn kĩ thuật khoan giếng và sử dụng nước ngầm

Trước quá trình biến đổi khí hậu đang ngày càng ảnh hưởng nặng nề hơn tới sản xuất và đời sống của người dân, việc quản lý sử dụng nguồn nước ngầm đang được chú trọng triển khai. Tình trạng khô hạn thiếu hụt nguồn nước trong canh tác và sản xuất đang là vấn đề cấp thiết. Làm sao để có được nguồn nước, giữ được nguồn nước chính là vấn đề mà mỗi cá nhân, các ban ngành tập thể cần quán triệt sâu sắc các chủ chương, biện pháp mà nhà nước đưa ra. Để chủ động ứng phó thình hình thiếu nước sinh hoạt, bà con nông dân và các cấp chính quyền địa phương nên tích cực thực hiện theo hướng dẫn kỹ thuật khoan giếng, đào giếng, quản lý, khai thác và bảo vệ nguồn nước ngầm để chống hạn.

1. Loại hình cấp nước

Căn cứ vào khả năng khô hạn của nguồn nước đối với các vùng, về trữ lượng nước, các điều kiện bổ sung của nguồn nước ngầm và khả năng sụt giảm trữ lượng do các điều kiện thiên nhiên thay đổi, để địa phương lựa chọn loại hình khai thác nước là giếng khoan.

2. Kỹ thuật thi công

Giếng khoan được sử dụng khai thác nước ngầm tầng sâu. Giải pháp thi công:
Chọn khoan xoay dùng dung dịch đất sét, đất bùn, hoặc dùng ống chống để khoan. Cấu thành của giếng khoan: có 04 bộ phận chính
  • Miệng giếng: Thường kết hợp bố trí vị trí đặt máy bơm nước.
  • Thân giếng ( còn gọi là ống vách ): được cấu tạo bằng ống thép hay ống nhựa (ốngPVC) có nhiệm vụ chống nước nhiễm bẩn và chống sạt lở giếng.
  • Chiều dài của ống vách phụ thuộc chiều sâu của giếng.
  • Bộ phận thu nước( còn gọi là ống lọc nước): Được nối với ống vách có nhiều khe, lổ lưới dùng để thu nước, được bố trí tại tầng trữ nước vào giếng.
  • Chiều dài ống lọc phụ thuộc chiều dày của tầng nước và lượng nước cần khai thác.
  • Ống lắng: Bố trí dưới ống lọc nước. Dùng để lắng cặn cát và chịu lực khi thổi súc rửa giếng. Chiều dài ống lắng khoản 1-1,5m.

Khoan và lắp đặt giếng

  • Bước 1: Khoan hố giếng
Khi khoan giếng cần lựa chọn theo các điều kiện địa chất thuỷ văn tại chổ khoan, dự kiến chiều sâu, đường kính khoan và đường kính giếng và lựa chọn phương pháp khoan. Chú ý giếng phải cách nguồn ô nhiễm tối thiểu 10m.
Sau khi khoan xong mà thấy không thể lắp giếng thì phải tiến hành lấp hố khoan bằng đất, cát khoan lên từ hố khoan, hoặc bằng đất sét, đất bùn hay đất ruộng để cách ly nước bị nhiễm bẩn từ bề mặt xuống và từ các tầng ngậm nước có chất lượng xấu, nước ô nhiếm.
  • Bước 2: Sau khi khoan xong dừng lại để lắp ống giếng:
Khi lắp đặt hoàn thành một cái giếng, ta phải cách ly giếng để khỏi bị nhiễm bẩn từ bề mặt đất xuống và các tầng ngậm nước không dùng đến bằng cách: Đóng hoặc chèn xung quanh ngoài ống vách giếng lớp đất sét có độ sâu tối thiểu là 3m, quanh miệng giếng lớp đất sét rộng 0,5m.
  • Bước 3: Bơm súc rửa giếng, bơm cảo nhiều lần đến khi thấy nước giếng đạt: nước trong, không màu, không có mùi, vị lạ thì mới đưa vào sử dụng. Nếu nước nhiễm sắt ( nước phèn) thì ta dùng bể lọc phèn để xử lý nước đạt yêu cầu mới sử dụng.

Quản lý vận hành và sử dụng giếng khoan

  • Giếng khoan có thể sử dụng bơm lắt tay hay bơm điện để bơm hút nước.
  • Sân giếng được láng xi măng, có rãnh thoát nước sinh hoạt ra xa khỏi giếng tối thiểu 10m.
  • Miệng giếng cao cách nền giếng tối thiểu 0,3m để chống nước chảy tràng vào giếng, nếu lắp bơm điện miệng giếng phải có nắp đậy, nếu lắp bơm tay thì phải đổ trụ bê tông xi măng bao quanh cột trụ giếng.
  • Khi sử dụng bơm điện thì phải mắt dây tiếp đất để chống điện rò rỉ, máy bơm phải có hộp che đậy bảo quản máy bơm tránh nắng mưa.
  • Vào mùa khô hạn cột nước hạ thấp, bơm thông thường không thể bơm nước được thì dùng máy bơm hút sâu để bơm nước.
  • Khi bơm nước, nguồn nước giếng không cấp kịp thì bơm chia ra nhiều lần để nước phục hồi, hoặc lắp van điều chỉnh lưu lượng ở đầu bơm vòi nước chảy ra, điều chỉnh sao cho phù hợp lượng nước khai thác đến khi nước chảy ổng định.
  • Khi có lũ phải tháo máy bơm bảo quản, thu hồi đường dây điện, bịt kín miệng giếng. Nếu giếng để ngập lụt, sau cơn lũ phải bơm cảo nước giếng với thời gian liên tục ít nhất 4 giờ thấy nước trong, không màu, không mùi vị lạ mới đưa vào sử dụng.
  • Nên xét nghiệm nước về vi sinh, về khoáng trước khi sử dụng.
  • Nếu nước nhiễm sắt ( phèn) thì dùng bể xử lý sắt để lọc.
  • Luôn giữ gìn vệ sinh sạch sẽ khu vực giếng.
  • Trong trường hợp giếng bỏ không dùng thì phải bịt kín miệng giếng hoặc nhổ giếng và lấp hố giếng bằng đất sét, bùn tránh nước chảy vào hố ngây ô nhiễm nguồn nước.